Tông Thư DOMINICAE CENAE (BỮA TIỆC CỦA CHÚA) – Phần I

I. MẦU NHIỆM THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG CỦA GIÁO HỘI VÀ CÁC LINH MỤC

Thánh Thể và thừa tác vụ Linh mục

2. Thưa Anh Em khả kính và thân mến trong hàng Giám Mục, bức thư này tôi gửi đến anh em, như tôi đã nói, tiếp nối là thư trước. Nó vẫn liên quan mật thiết với mầu nhiệm của ngày Thứ Năm Tuần Thánh và thừa tác vụ linh mục. Thật vậy, tôi muốn dành bức thư này để nói về Bí tích Thánh Thể và, đặc biệt, về một vài khía cạnh của mầu nhiệm có ảnh hưởng trên đời sống của những tác viên có trách nhiệm cử hành mầu nhiệm này.

Bức thư này được trực tiếp gửi đến anh em là các Giám mục của Hội Thánh; và cùng với anh em, đến tất cả các linh mục, và các phó tế nữa, trong phẩm trật của họ.

Thật vậy, chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, chức tư tế của các Giám mục và các linh mục, và bên cách các ngài là thừa tác vụ của các phó tế – các thừa tác vụ này thường bắt đầu bằng việc loan báo Tin Mừng – liên quan mật thiết đến Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là nguyên nhân chính và trọng yếu của bích tích truyền chức linh mục, vì bí tích này thực sự được phát sinh trong lúc Chúa thiết lập Bí tích Thánh Thể và hiện hữu cùng với Bí tích Thánh Thể.[1]

Vì thế mệnh lệnh “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” được Chúa phán ngay sau lời truyền phép, và được chúng ta nhắc lại mỗi lần cử hành Hy Lễ Thánh này.[2]

Do chức thánh – nghi lễ truyền chức gắn liền với thánh lễ theo những tài liệu phụng vụ đầu tiên,[3] – chúng ta được kết hiệp một cách cá nhân và đặc biệt với Thánh Thể. Theo cách nào đó, chúng ta hiện diện “do Bí tích Thánh Thể” và “cho Bí tích Thánh Thể”. Và một cách đặc biệt, chúng ta cũng có trách nhiệm “do Bí tích Thánh Thể”: mỗi linh mục trong cộng đoàn của mình, cũng như mỗi Giám mục phải chăm nom các cộng đoàn đã được trao phó cho mình, như “mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” theo lối diễn tả của thánh Phaolô.[4] Như vậy, chúng ta, các Giám mục và linh mục, là những người được Chúa trao phó “mầu nhiệm đức tin”. Mầu nhiệm này cũng được ban tặng cho toàn thể Dân Chúa, cho tất cả những ai tin vào Chúa Kitô, nhưng riêng chúng ta là những người cũng được Chúa trao Bí tích Thánh Thể để “phục vụ” người khác là những kẻ mong đợi nơi chúng ta một chứng tá đặc biệt về lòng sùng kính và mến yêu đối với bí tích này, để họ được củng cố và trở nên sống động, “dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người”.[5]

Việc tôn sùng Thánh Thể, trong khi cử hành thánh lễ cũng như ngoài thánh lễ, như một nguồn suối đem lại sự sống kết hợp chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của chúng ta với chức tư tế chung của các tín hữu, và trình bày chức vụ đó trong chiều kích hàng dọc với giá trị trọng yếu của nó.

Linh mục thi hành sứ mạng chính của mình và biểu lộ toàn diện tính linh mục trong khi cử hành lễ Tạ Ơn.[6]  Việc biểu lộ này sẽ trọn vẹn hơn khi chính linh mục chiếu tỏa chiều sâu của mầu nhiệm này, để mầu nhiệm này, qua việc thi hành thừa tác vụ linh mục, được chói ngời trong con tim và lương tâm mọi người. Đó là cách thức thi hành cao cả nhất chức vụ “tư tế vương giả”, là “nguồn gốc và đỉnh cao của tất cả đời sống Kiô giáo”.[7]

Việc Tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể

3. Việc tôn sùng này hướng về Thiên Chúa Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần. Trước hết hướng về Chúa Cha, Đấng mà Phúc Âm thánh Gioan đã quả quyết: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.[8]

Việc tôn sùng Thánh Thể cũng hướng về Chúa Con nhập thể, trong Thánh Thần, chiếu theo nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa, nhất là vào lúc Người hiến trọn mạng sống mình, điều được phản ánh trong những lời Người nói trong bữa Tiệc Ly: “Này là mình Thầy bị nộp vì các con… Này là chén máu Thầy sẽ đổ ra cho các con…”.[9] Lời tung hô trong phụng vụ: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết!” giúp chúng ta hồi tưởng giây phút này; và, khi cử hành việc phục sinh của Người, chúng ta kết hiệp trong cùng hành động sùng kính Chúa Kitô phục sinh và được tôn vinh “bên hữu Chúa Cha”, và chờ đợi cuộc “quang lâm vinh hiển” của Người. Tuy nhiên hành động tự hạ, đẹp lòng Chúa Cha và được tôn vinh nhờ cuộc phục sinh, hành động đó, được cử hành cách bí tích cùng với việc phục sinh, đưa chúng ta đến chỗ tôn thờ Đấng Cứu Chuộc, Đấng “còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập tự”.[10]

Sự tôn thờ của chúng ta còn bao hàm một nét đặc biệt nữa. Sự tôn thờ giúp chúng ta nhận ra sự cao cả của cái chết đầy nhân tính của Chúa, qua đó thế gian – tức mỗi người chúng ta – được yêu “cho đến cùng”.[11] Như vậy, sự tôn thờ là câu đáp trả trọn nghĩa với Tình Thương đã hy sinh cho đến chết trên thập giá: đó là lối chúng ta “Tạ Ơn”, nghĩa là lời tri ân của chúng ta, lời ngợi khen vì đã được chuộc lại nhờ cái chết của Người và được chia sẻ đời sống bất tử nhờ cuộc phục sinh của Người.

Một nền phụng tự hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi – Cha, Con và Thánh Thần – phải theo sát và thấm nhuần việc cử hành phụng vụ tạ ơn. Việc phụng tự này phải luôn hiện diện trong các nơi thánh ngay cả ngoài thánh lễ. Vì mầu nhiệm Thánh Thể được thiết lập do tình thương và làm cho Chúa Kitô hiện diện cách bí tích, nên thật là chính đáng để chúng ta tạ ơn và tôn sùng. Thái độ tôn sùng này phải biêu lộ rõ nét mỗi khi chúng ta viếng Thánh Thể, khi tham quan các nhà thờ, hay khi đem Mình Chúa cho các bệnh nhân.

Việc tôn thờ Chúa Kitô trong bí tích tình thương này còn được diễn tả dưới nhiều hình thức tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể: cầu nguyện riêng tư trước Thánh Thể, những giờ tôn thờ, chầu Thánh Thể cách ngắn ngủi, lâu giờ, hằng năm (40 giờ), chầu phép lành, kiệu Thánh Thể, các đại hội Thánh Thể.[12] Lễ trọng “Mình và Máu Chúa Kitô”, do vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Urbanô IV đặt ra để tưởng niệm việc Chúa thiết lập mầu nhiệm cao cả này,[13] đáng được chúng ta lưu ý đặc biệt, vì đó là một nghi lễ công khai tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể. Tất cả những điều này phù hợp với các nguyên lý tổng quát và các quy tắc đặc biệt đã có từ lâu, được trình bày lại trong Công Đồng Vatican II hay sau Công Đồng.[14]

Những kích hoạt và đào sâu việc tôn sùng Thánh Thể là một bằng chứng cuộc canh tân chính thức mà Công Đồng đã đề ra như mục đích, và đó chính là điểm trọng yếu. Thưa Anh Em khả kính và thân mến, điều này cũng đáng cho chúng ta đặc biệt suy nghĩ. Hội Thánh và thế giới đang rất cần việc tôn sùng Thánh Thể. Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Chúng ta đừng tiếc thời giờ để đến gặp Người trong sự tôn thờ, trong chiêm ngắm đầy đức tin và luôn sẵn dàng đền bồi các tội lỗi của thế giới. Chớ gì chúng ta không bao giờ ngưng nghỉ việc tôn thờ Thánh Thể!

Thánh Thể và Giáo hội

4. Nhờ Công Đồng, chúng ta đã ý thức rõ rệt chân lý sau đây: cũng như Hội Thánh “thực hiện Bí tích Thánh Thể” thì “Bí tích Thánh Thể xây dựng” Hội Thánh.[15] Chân lý này gắn liền mật thiết với mầu nhiệm ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Hội Thánh đã được thiết lập, như cộng đoàn mới của Dân Thiên Chúa, trong cộng đoàn tông đồ của Nhóm Mười Hai là những người, trong Bữa Tiệc Ly, đã trở nên thông phần Mình và Máu Chúa dưới hình bánh và rượu. Chúa Kitô nói với họ: “Các con hãy cầm lấy mà ăn”“Các con hãy cầm lấy mà uống”. Khi tuân theo lệnh truyền của Người, lần đầu tiên họ đã đi vào sự thông hiệp bí tích với Con Thiên Chúa, một sự thông hiệp làm bảo chứng cho đời sống vĩnh cửu. Từ giây phút đó trở đi và mãi cho đến tận thế, Hội Thánh được xây dựng bởi cùng một sự thông hiệp với Con Thiên Chúa, làm bảo chứng cho cuộc Vượt Qua vĩnh cửu.

Thưa Anh em khả kính và thân mến trong hàng Giám Mục, trong tư cách là thầy dạy và người bảo vệ chân lý cứu độ về mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta phải luôn chú tâm đến ý nghĩa và chiều kích của việc gặp gỡ Đức Kitô trên bình diện bí tích và sự thân mật với Người. Thật vậy, đó là những điều tạo nên bản chất của việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể. Ý nghĩa của chân lý được trình bày trên đây không giảm thiểu, trái lại còn làm cho người ta dễ hiểu tại sao trong thái độ tạ ơn, những người thông phần vào hy lễ của Đức Kitô lại được xích lại gần nhau một cách thiêng liêng và được hiệp thông với nhau; chính hy lễ của Đức Kitô, qua việc hiệp lễ, trở thành một bữa tiệc đối với họ. Sự xích lại và hiệp thông với nhau, mà nguyên mẫu là sự thông hiệp của các tông đồ chung quanh Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly, diễn tả và thực hiện Giáo Hội.

Nhưng Hội Thánh không chỉ được thực hiện nhờ sự hiệp thông giữa những con người với nhau, trong kinh nghiệm huynh đệ do bàn tiệc Thánh Thể tạo nên. Hội Thánh còn được hiện thực khi, trong sự kết hợp và hiệp thông huynh đệ này, chúng ta cử hành hy lễ thập giá của Chúa Kitô, khi chúng ta loan báo “cái chết của Chúa cho tới ngày Người đến”,[16] sau đó, khi đã được bước vào mầu nhiệm cứu độ, với tư cách là một cộng đoàn, chúng ta cùng tiến đến bàn tiệc của Chúa để được nuôi dưỡng cách bí tích bằng các hoa trái của hy lễ đền tội này. Trong lúc hiệp lễ, chúng ta đón nhận chính Chúa Kitô; và sự hiệp thông của chúng ta với Người quả là quà tặng và hồng ân cho mỗi người, mang lại hiệu quả là liên kết chúng ta trong Người trong sự hiệp thông với Thân Thể Người là Hội Thánh.

Với đức tin và tinh thần như thế, Hội Thánh mới có thể được xây dựng, một Giáo Hội bắt nguồn từ Thánh Thể và đạt tới đỉnh cao của mình trong Thánh Thể, theo lối diễn tả của Công Đồng Vatican II mà ai cũng biết.[17] Cũng nhờ Công Đồng, chân lý này một lần nữa được nhấn mạnh cách mới mẻ,[18] phải luôn là đề tài suy niệm và giảng dạy của chúng ta. Mỗi hoạt động mục vụ phải thấm nhuần chân lý đó, chúng ta phải lấy chân lý đó làm lương thực cho chính mình và cho các linh mục cộng tác với chúng ta, và cuối cùng cho toàn thể các cộng đoàn đã được trao phó cho chúng ta.

Như vậy, tương quan mật thiết giữa sức sống thiêng liêng và tông đồ của Hội Thánh với mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ tỏ hiện từng bước một theo nghĩa sâu xa và dưới mọi khía cạnh của mầu nhiệm đó.[19]

Thánh Thể và Đức ái

5. Trước khi bước qua các nhận xét chi tiết hơn về vấn đề cử hành hy lễ thánh, tôi muốn xác nhận cách ngắn gọn rằng việc tôn sùng Thánh Thể là linh hồn của mọi đời sống Kitô hữu. Thật vậy, nếu đời sống Kitô hữu được diễn tả trong việc chu toàn lệnh truyền cao cả, nghĩa là trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân, tình yêu đó bắt nguồn từ chính bí tích thánh, thường được gọi là bí tích tình yêu.

Bí tích Thánh Thể nói lên ý nghĩa của đức ái, nhắc nhở và cụ thể hóa, đồng thời thực hiện đức ái. Mỗi lần chúng ta tham dự bí tích đó cách ý thức, một chiều kích vương giả của tình yêu khôn thấu mở ra trong tâm hồn chúng ta, tình yêu bao hàm tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho loài người, và vẫn tiếp tục thực hiện, đúng như lời của Chúa Kitô: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc và tôi cũng làm việc”.[20]

Với hồng ân khôn lường và nhưng không mà đức ái đã bộc lộ trong hy tế cứu độ của Con Thiên Chúa mà Thánh Thể là dấu chỉ trường tồn cho hy lễ đó, chúng ta có một lời đáp trả sống động phát xuất tự tâm hồn. Không những chúng ta biết được tình thương, mà chính chúng ta còn bắt đầu yêu thương. Có thể nói chúng ta bước vào con đường của tình yêu, và thực hiện những bước tiến trên con đường này. Tình yêu xuất phát từ mầu nhiệm Thánh Thể hình thành trong chúng ta, phát triển, cắm rễ sâu và trở nên vững chắc trong ta nhờ mầu nhiệm đó.

Việc tôn sùng Thánh Thể là cách diễn tả tình yêu, một nét đặc thù và sâu thẳm nhất của ơn gọi Kitô hữu. Việc tôn sùng này xuất phát từ tình yêu và phục vụ tình yêu, đó là ơn gọi của chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô.[21] Hình ảnh hoàn hảo về Thiên Chúa mà chúng ta đang mang trong mình, tương ứng với hình ảnh mà Chúa Kitô mặc khải cho chúng ta; hình ảnh đó là kết quả sống động của việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể. Nhờ đó, khi trở thành những ng tôn thờ Chúa Cha “trong thần khí và chân lý”,[22] chúng ta tăng trưởng trong sự kết hiệp ngày càng hoàn hảo với Chúa Kitô, ngày càng nên một với Người cách mật thiết hơn và – nếu có thể diễn tả – ngày càng liên đới với Người.

Giáo lý về mầu nhiệm Thánh Thể, dấu chứng của sự hiệp nhất và mối dây bác ái, được thánh Phaolô chỉ dạy,[23] đã được đào sâu trong tác phẩm của nhiều vị thánh, có thể xem như những mẫu gương sống động cho việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể. Chúng ta phải luôn giữ thực tại đó trước mắt mình, đồng thời không ngừng cố gắng làm sao cho thế hệ của chúng ta cũng đóng góp vào số các mẫu gương vĩ đại của quá khứ, những mẫu gương mới không kém phần sống động và hùng hồn, mà còn phản ánh được thời đại của chúng ta.

Mầu nhiệm Thánh Thể và tha nhân

6. Ý nghĩa chính xác của Thánh Thể đã trở thành một trường học yêu thương hướng về tha nhân. Chúng ta biết lệnh truyền đích thực và toàn diện về tình yêu mà Chúa đã dạy: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.[24] Mầu nhiệm Thánh Thể giáo dục chúng ta sống tích cực tình yêu này. Quả vậy, mầu nhiệm Thánh Thể soi tỏ giá trị của mỗi con người, là anh em và chị em chúng ta, trước mặt Thiên Chúa, vì Chúa Kitô đã tự hiến chính mình cho mỗi người, dưới hình bánh và rượu. Nếu việc tôn sùng Thánh Thể có giá trị đích thực, thì sẽ làm nảy sinh trong chúng ta ý thức về nhân phẩm của mọi người. Ý thức phẩm giá này trở thành lý do sâu thẳm nhất cho tương quan của chúng ta với tha nhân.

Chúng ta phải nhạy cảm trước tất cả những đau khổ và khốn cùng của nhân loại, trước mọi nỗi bất công và sai trái, và phải tìm biện pháp chữa trị cách hữu hiệu. Chúng ta học khám và tôn trọng chân lý về con người nội tâm vì chính nội tâm của con người sẽ là nơi cư ngụ của Thiên Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Chúa Kitô đến ngự trong các tâm hồn và thăm viếng lương tâm các anh em chị em chúng ta. Nếu như chúng ta ý thức thực tại này và lấy thực tại đó làm đối tương suy tư, thì hình ảnh về mọi người và mỗi người sẽ thay đổi biết bao! Ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể thúc đẩy chúng ta yêu thương tha nhân, yêu thương mọi người.[25]

Mầu nhiệm Thánh Thể và cuộc sống

7. Vì là nguồn mạch của đức ái, mầu nhiệm Thánh Thể bao giờ cũng là trọng tâm của đời sống các môn đệ Chúa Kitô. Mầu nhiệm này tỏ hiện dưới hình bánh hình rượu, nghĩa là như của ăn và thức uống, nên rất gần gũi với con người, nối kết chặt chẽ với cuộc sống con người như lương thực cần thiết. Tôn thờ Thiên Chúa là Tình Yêu, trong việc tôn sùng Thánh Thể, sẽ làm nảy sinh sự mật thiết, trong đó chính Người trở thành của ăn và thức uống cho đời sống thiêng liêng.

Một việc tôn thờ Thiên Chúa trong “Thánh Thể” như vậy phù hợp chặt chẽ với ý định cứu độ của Ngài. Chính Chúa Cha muốn rằng “những kẻ tôn thờ đích thực”[26] tôn thờ Ngài như thế. Chúa Kitô minh giải ý muốn đó, qua lời giảng dạy của Người và nhờ bí tích này, qua đó Người ban cho chúng ta khả năng tôn thờ Chúa Cha hợp với thánh ý Ngài.

Chính từ tư tưởng tôn thờ Thánh Thể như thế mà xuất phát tất cả tính cách bí tích của đời sống Kitô hữu. Về phần mình, người Kitô hữu sống dựa vào các bí tích, được sinh động nhờ chức tư tế cộng đồng, ước mong Thiên Chúa tác động, để nhờ Thánh Thần, họ đạt tới “sự viên mãn trong Đức Kitô”.[27] Về phần Thiên Chúa, Ngài không chỉ thực hiện việc đó trong các biến cố hay khi ban ân sủng nội tâm, mà Ngài còn hoạt động trong họ bằng các bí tích một cách chắc chắn và mạnh mẽ hơn. Chính các bí tích đem lại cho cuộc sống con người tính cách bí tích.

Trong tất cả các bí tích, Bí tích Thánh Thể giúp người Kitô hữu đạt tới sự viên mãn của việc khai tâm và làm cho việc thực thi chức tư tế cộng đồng có tính cách bí tích và tính Hội Thánh, khiến chức tư tế này – như tôi đã nói ở trên,[28] – gắn liền với chức tư tế thừa tác. Như vậy việc tôn thờ Thánh Thể là trọng tâm và là mục đích của toàn thể đời sống bí tích.[29] Các bí tích khai tâm Kiô giáo, thánh tẩy và thêm sức, luôn âm hưởng trong Bí tích Thánh Thể như một tiếng vang sâu thẳm. Nơi đây chân lý được diễn tả rõ hơn: không những chúng ta “được gọi là con Thiên Chúa” mà còn “thực sự là con Thiên Chúa”[30] nhờ Bí tích Thánh Tẩy, nhưng trong Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ Mình và Máu của Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. Điều gì sửa soạn chúng ta một cách hoàn hảo nhất để chúng ta trở thành “những chứng nhân đích thực của Đức Kitô”[31] trước mặt thế giới, như đó là kết quả của bí tích thêm sức, nếu không phải là sự hiệp thông Thánh Thể, trong đó Chúa Kitô làm chứng cho chúng ta và chúng ta làm chứng cho Người?

Ở đây tôi không thể phân tích tỉ mỉ các mối liên hệ giữa Thánh Thể với các bí tích khác, đặc biệt với bí tích dành cho đời sống gia đình và bí tích cho các bệnh nhân. Trong Thông điệp Đấng Cứu Chuộc con người (Redemptoris hominis),[32] tôi đã lưu ý anh em về tương quan mật thiết giữa bí tích sám hối và Bí tích Thánh Thể. Không những sám hối dẫn đến Thánh Thể, mà cả Thánh Thể cũng đưa đến việc sám hối. Thật vậy, khi chúng ta ý thức Đấng chúng ta đón nhận trong sự hiệp thông Thánh Thể là Ai thì tự nhiên chúng ta cảm thấy bất xứng, đồng thời hối tiếc vì tội lỗi và cảm thấy nhu cầu nội tâm cần được tẩy sạch.

Tuy nhiên chúng ta phải luôn cảnh giác để cuộc gặp gỡ quý báu với Đức Kitô trong bí tích trong Bí tích Thánh Thể không trở thành một thói quen máy móc, và đừng bao giờ lãnh nhận Người cách bất xứng, nghĩa là trong tình trạng tội nặng. Việc thực hành nhân đức sám hối và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải là những điều cần thiết để nâng đỡ và đào sâu tinh thần thờ lạy mà con người phải có đối với Thiên Chúa và với Tình Yêu đã được Ngài mặc khải cách kỳ diệu.

Những lời này của tôi ngoài việc dùng để dẫn nhập cho một vài suy niệm tổng quát về việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể, còn có thể khai triển dồi dào và rộng rãi hơn nữa. Chẳng hạn, chúng ta ta có thể nối kết những gì đã nói về các hiệu quả của Thánh Thể đối với tình yêu tha nhân, về những điều tôi vừa nhấn mạnh liên quan đến việc dấn thân cho con người và Hội Thánh trong việc hiệp lễ, rồi trình bày rõ ràng hình ảnh về “đất mới”[33] được hình thành từ Bí tích Thánh Thể qua mỗi “con người mới”.[34]

Quả vậy, tất cả những gì thuộc về con người được biến đổi và được nâng cao một cách đặc biệt trong bí tích thánh này, bí tích của lương thực và thức uống. Việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể không phải là sự thờ phượng một đấng siêu việt vô phương đạt thấu, cho bằng phụng thờ một Thiên Chúa chiếu cố đến con người, đó là một sự biến đổi thế giới có tính nhân từ và cứu độ ngay trong tâm hồn con người.

Bằng những lời nhắc nhở ngắn ngủi này, tôi muốn tạo ra một khung rộng hơn cho những vấn đề mà tôi sắp bàn tới, những vấn đề đó liên quan chặt chẽ đến việc cử hành Hy Lễ Thánh. Việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể tự diễn tả một cách trực tiếp trong cuộc cử hành này, sự tôn sùng đó phát xuất từ đáy lòng như một việc cung kính rất quý giá, được cảm hứng do đức tin, đức cậy và đức mến, là những điều ta lãnh nhận khi chịu phép thánh tẩy. Đây là đề tài mà tôi muốn triển khai trong bức thư này gửi cho Anh Em khả kính và thân mến trong hàng Giám Mục, và, cùng với anh em, cho các linh mục và phó tế; Thánh Bộ về các bí tích và phụng tự sẽ đưa ra những chỉ dẫn chi tiết kèm theo bức thư này.


[1] Cf. Conc. oecum. de Trente, sess. XXII, can. 2: Conciliorum oecumenicorum Decreta, 3 e éd., Bologne 1973, p. 735.

[2] Phụng vụ Thánh Thể Ethiopia, vì giới luật này của Chúa, nhắc lại rằng các tông đồ “đã thiết lập cho chúng con các thượng phụ, tổng giám mục, linh mục và phó tế để cử hành nghi thức của Giáo hội thánh thiện của Chúa”. Anaphora S. Athanasii: Prex eucharistica, Haenggi-Pahl. Fribourg (Thụy Sĩ) 1968, tr. 183.

[3] Cf. Truyền thống các Tông Đồ của Thánh Hippolyte, n. 2-4, Ed. Botte, Munster (Wesphalie) 1963, p. 5-17.

[4] 2Cr 11,28.

[5] 1Pr 2,5.

[6] Cf. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 28; Sắc lệnh Presbyterorum ordinis (chức vụ và đời sống linh mục), n. 2 và 5; Sắc lệnh Ad gentes (hoạt động truyền giáo của Giáo Hội), n. 39.

[7] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 11.

[8] Ga 3.16. Thật thú vị khi lưu ý rằng những lời này được phụng vụ của Thánh Gioan Kim Khẩu sử dụng ngay trước những lời truyền phép, mà chúng giới thiệu: cf. Divina Liturgia del santo nostro Padre Giovanni Crisostomo, Rome-Grottaferrata 1967, tr. 104-105.

[9] Cf. Mt 26,26 s.; Mc 14,22-25; Lc 22,18 s.; 1Cr 11,23-25; cũng xem các Kinh Nguyện Thánh Thể hiện nay.        

[10] Pl 2,8. 

[11]  Ga 13,1.

[12] Cf. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn từ tại Phoenix Park de Dublin, 29 septembre 1979, n. 7; Thánh Bộ Nghi Lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, 25 tháng 5 1967: Rituale romanum. De sacra communione et de cultu Mysterii eucharistici extra missam, Éd. typique, 1973. Cần lưu ý rằng giá trị của việc thờ phượng và quyền năng thánh hóa của những hình thức sùng kính Thánh Thể này tùy thuộc vào thái độ nội tâm của người sùng kính hơn là chính những hình thức sùng kính này.

[13] Cf. bulle Transiturus de hoc mundo (11 août 1264): Æmilii Friedberg Corpus iuris canonici, Pars II: Decretalium collectiones, Leipzig 1881, p. 1174-1977; Studi eucaristici, VIIe centenaire de la bulle Transiturus 1264-1964, Orvieto 1966, p. 302-317.

[14] Cf. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Mysterium fidei; Thánh Bộ Lễ Nghi, Huấn thị Eucharisticum mysterium; Rituale romanum. De sacra communione et de cultu Mysterii eucharistici extra missam, Éd. typique, 1973.

[15] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis, n. 20; cf. Công Đồng Vatican II. Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 11; cũng xem note 57 cho số 20 lược đồ II của Hiến chế này dans Acta Synodalia sacrosancti Concilii oecumenici Vaticani II, vol. II, periodus 2 a, pars. I, sessio publica II, p. 251-252; Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, huấn từ trong buổi triều yết chung ngày 15/9/1965: Insegnamenti di Paolo VI, III (1965), n. 1036; H. de Lubac. Méditations sur l’Église, 2e édit., Paris 1953, p. 129-137.

[16] 1Cr 11,26.

[17] Cf. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 11; Hiến chế Sacrosanctum Concilium (Phụng Vụ Thánh), n. 10; Sắc lệnh Presbyterorum ordinis (Chức vụ và đời sống linh mục), n. 5; Sắc lệnh Christus Dominus (Nhiệm vụ của Giám mục trong Giáo Hội), n. 30; Sắc lệnh Ad gentes (Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội), n. 9.

[18] Cf. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 26; Sắc lệnh Unitatis redintegratio (Về Đại Kết), n. 15.

[19] Đây là điều được nhắc đến trong Lời nguyện nhập lễ thứ V Tuần Thánh: “… chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, xin cho chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người” (Sách Lễ Rôma); cũng vậy trong lời khấn cầu de même les épiclèses de communion du Missel romain: “Chúng con tha thiết nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Chúa Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần. Lạy Chúa xin nhớ đến Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu, để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến” (Kinh Nguyện Thánh Thể II; x. Kinh Nguyện Thánh Thể III).

[20] Ga 5,17.

[21] Cf. Lời nguyện sau hiệp lễ chúa nhật XXII thường niên: “Lạy Chúa, chúng con đã được bồi dưỡng nơi bàn tiệc thiên quốc; xin cho bí tich này giúp chúng con thêm lòng yêu mến và thúc đẩy chúng con hết lòng phục vụ Chúa trong anh em” (Sách Lễ Rôma).

[22] Ga 4,23.

[23] Cf. 1Cr 10,17, St. Augustin chú giải, In Evangelium Ioannis tract, 31, 13; PL 35, 1613, và Công ĐồngTrente, sess. Xlll, chap. 8: Conciliorum oecume-nicorum Decreta, Bologne 1973, p. 697, 7; cf. Công Đồng Vatican II. Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 7.

[24] Ga 13,35.

[25] Điều này được nhắc đến trong một số lời nguyện của Sách Lễ Rôma: lời nguyện tiến lễ cho lễ chung các thánh lo việc bác ái: “… xin cho chúng con biết noi gương các thánh để lại, nhờ đó, tình yêu của chúng con đối với Chúa cũng như đối với nhau ngày càng thêm đâm đà thắm thiết” (Sách lễ Rôma); lời nguyện sau hiệp lễ cho lễ chung các thánh lo việc giáo dục: “… chúng con đem hết tâm hồn và cả đời sống để làm chứng cho sự thật và nói lên tình huynh đệ chân thành” (Ibid., p. 723); xc. Lời nguyện sau hiệp lễ chúa nhật XXII thường niên như đã nói trên, note 22.

[26] Ga 4,23.

[27] Ep 4,13.

[28] Cf. supra số 2.

[29] Cf. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad gentes (Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội), n. 9 và 13; Sắc lệnh Presbyterorum ordinis (Chức vụ và đời sống linh mục), n. 5.

[30] 1Ga 3,1

[31] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), n. 11.

[32] Cf. n. 20.

[33] 2Pr 3,13.

[34] Cl 3,10.